Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương Mịt mù khói toả ngàn sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Chú thích [ sửa | sửa mã nguồn] ^ Kiêm lý: Đơn vị hành chính cấp trên trực tiếp quản lý đơn vị cấp dưới, không đặt bộ máy riêng. ^ Nguyên văn chép hai chữ 寨 và 砦, đều mang âm trại, hiện chưa xác định được sự phân biệt.
Bức tranh duy nhất chỉ có nét thanh mảnh của cành trúc la đà trên cái nền mông lung mờ ảo của bầu trời và mặt hồ. Trong câu tiếp theo, các âm thanh hòa quyện vào nhau: Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Tiếng chuông ngân nga, tiếng gà gáy rộn rã báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Tiếng chuông chùa vang vọng giữa thinh không gợi cảm giác bình yên.
Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Đọc bài ca dao và khoanh tròn vào phương án đúng nhất: Trang chủ Môn Văn Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Phụ huynh sửng sốt với món 'canh gà Thọ Xương' Kiểm tra vở Văn, phụ huynh sốc khi thấy con viết "tiếng chuông Trấn Vũ" là nét đẹp tôn trọng thờ kính tổ tiên, còn "canh gà Thọ Xương" là món canh gà ở hồ Tây. Cô không sửa sai sót này mà vẫn cho điểm 8.
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Câu ca dao ngắt thành hai nhịp chẵn 4-4, hai vế tiểu đối cân xứng, hòa hợp như âm thanh tiếng chuông chùa Trấn Vũ và tiếng gà gáy sang canh từ làng Thọ Xương vọng tới. Chùa Trấn Vũ còn gọi là chùa Quan Thánh nằm cạnh Hồ Tây, là nơi thờ đức Huyền Thiên Trấn Vũ.
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. định chữ "canh" trong câu "canh gà Thọ Xương" trong bài Hà Nội Tây cảnh dịch từ chữ Nôm ra là tiếng gà báo canh chứ không phải là món canh. Theo cách tính của dân gian xưa, một đêm có 5 canh: canh 1 từ 19h - 21h, canh 2 từ 21h - 23h, canh
4Pq9rVe. Trong kho tàng văn học Việt Nam bốn câu thơ Gió đưa cành trúc la đàTiếng chuông Trấn Võ canh gà Thọ XươngMịt mùng khói tỏa ngàn sươngNhịp chày An Thái mặt gương Tây Hồ đã được rất nhiều người, nhiều thế hệ nhớ tới như một phẩm vật văn hóa quý giá được lưu truyền trong dân gian. Bốn câu thơ đơn giản này lại là đề tài cho nhiều câu chuyện bên lề khó quên. Hai chữ “canh gà” trong câu thơ vốn mang ý nghĩa là thời khắc vào ban đêm thì lại được không ít người diễn giải trệch ra thành một món canh thịt gà, có nguồn gốc từ xóm Thọ Xương Hà Nội. Từ những ý tưởng trái nghịch này, hai chữ canh gà ra tới hải ngoại với một căn cước mới bằng tiếng Anh là “chicken soup”, từ đó nhiều khi người đọc bối rối không biết cái bát súp gà kia tại sao lại chiếm thời gian của nhiều người đến thế. Thật ra điểm mấu chốt của bài thơ khiến người ta thường lầm lẫn vì nghĩ rằng nó là bốn câu ca dao được truyền miệng qua nhiều thế hệ. Tác giả của bốn câu thơ thân quen này là ai và điều gì làm cho nó nổi tiếng như vậy? Mặc Lâm mời quý vị theo dõi câu chuyện này qua cuộc trao đổi giữa chúng tôi và TS Hán Nôm Nguyễn Xuân Diện để tìm hiểu thêm về một tác giả mà chính ông Diện do cơ duyên trong khi đi nghiên cứu đã tìm thấy câu trả lời thú vị từ một dòng họ nức tiếng của đất Hà Thành. Của tác giả Dương Khuê 4 câu thơ chữ Nôm được viết trong Vân Trì thi thảo, chữ 'canh' được đánh dấu bằng vòng tròn đỏ. Photo courtesy of blog Nguyễn Xuân Diện. Mặc Lâm Thưa xin chào TS. Như chúng ta đã biết vài ngày qua dư luận đã dấy lên một cơn lốc phản ứng trước việc một cô giáo bỏ qua chi tiết sai trong một bài luận văn của một học sinh khi em này viết rằng “canh gà Thọ Xương” là một món canh gà rất ngon. Cô giáo này cho biết là do sơ ý chứ không phải vì thiếu kiến thức hay chủ quan trong vấn đề giảng dạy. Nhân câu chuyện lầm lẫn này chúng tôi được biết TS là người có cơ may tiếp cận được với các văn bản có liên quan đến bài thơ này từ rất sớm chứng minh bốn câu thơ này là của một tác giả uyên thâm, đó là cụ Dương Khuê chứ không phải là ca dao như nhiều người thường nghĩ. Câu chuyện bắt đầu như thế nào thưa TS? TS Nguyễn Xuân Diện Khoảng năm 1993 tôi có đưa một bạn sinh viên của ngành Hán Nôm tới Vân Đình tức là thủ phủ của huyện Ứng Hòa mà ngày xưa là huyện Ứng Thiên, bây giờ là huyện Ứng Hòa của Hà Nội để làm một bài luận văn tốt nghiệp đại học về sự nghiệp giáo dục của Dương Lâm, vì lúc ấy tôi cũng tranh thủ nghiên cứu về thơ văn của các tác giả họ Dương. Ở đây nhân vật mà tôi muốn đề cập đến là tác giả Dương Khuê. Ngoài chuyện quan tâm đến ca trù thì tôi có để ý đến một số thơ văn khác của cụ nghè Vân Đình tức là cụ Dương Khuê. Lúc bấy giờ một cụ trưởng tộc họ Dương đã trao cho chúng tôi một bản photo của cuốn Dương Gia Phả Ký. Cuốn Dương Gia Phả Ký này là một bản đánh máy bằng chữ quốc ngữ trên giấy Tây do Dương Thiết Cương vào cuối mùa hạ Quý Sửu tức là năm 1943 và đã được một nhà nghiên cứu về gia phả học rất nổi tiếng ở Sài Gòn trước năm 1975 do Nhã Lan Nguyễn Đức Dụ in ấn. Cuốn Dương Gia Phả Ký này gồm có 122 trang, ngoài việc chép các sinh hoạt của gia tộc họ Dương bắt đầu từ cụ Dương Phan thì còn chép rất nhiều thơ văn, đối liễn của các tác giả họ Dương này. Bắt đầu từ trang 106 thì có chép thi ca của cụ Dương Khuê, tức cụ nghè Vân Đình biệt hiệu là Vân Trì. Cũng ngay trang này ở bài thứ hai thì có bài Hà Thành Tức Cảnh có bốn câu thơ có một vài chữ khác với bài thơ mà chúng ta vẫn thường bắt gặp đó là Phất phơ cành trúc trăng tàTiếng chuông Trấn Võ canh gà Thọ XươngMịt mùng khói tỏa ngàn sươngNhịp chày An Thái mặt gương Tây Hồ Căn cứ vào đề từ của bài thơ chúng ta thấy Hà Thành ở đây tức là Hà Nội và như vậy Thọ Xương là địa danh thuộc Hà Nội. Mặc Lâm Thưa xin được ngắt lời TS, còn chữ An Thái thì có người cũng viết là Yên Thái, có gì khác nhau giữa hai danh từ này? TS Nguyễn Xuân Diện Trong văn bản viết thì An Thái thực ra là Yên Thái vì trong chữ Hán thì chữ An và chữ Yên viết là một chữ nhưng có hai âm đọc. Đấy là cái văn bản mà chúng tôi được thấy bài thơ này trong Dương Gia Phả Ký và từ đó đến nay thì luôn luôn chúng tôi để ý tìm trong các thi văn của các tác giả họ Dương ở Vân Đình. Trong kho sách của Viện Nghiên Cứu Hán Nôm cũng như trong các trang thư cá nhân khác, tuy nhiên chúng tôi chưa tìm thấy bài thơ này viết bằng văn bản Hán Nôm. Trong cuốn “Tâm trạng Dương Lâm - Dương Khuê” xuất bản lần đầu vào năm 1995 và tái bản năm 2005 của tác giả Dương Thiệu Tống, cụ là giáo sư Tiến sĩ và là cháu nội của cụ Dương Lâm đã cho biết bài thơ đó chép theo Dương Gia Phả Ký và cuốn luận đề về Dương Khuê mà cuốn này lại do Nguyễn Duy Diễn xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1960. Như vậy ngay từ năm 1960 thì tài liệu luận đề về Dương Khuê đã khẳng định Hà Thành Tức Cảnh là của Dương Khuê nhưng lần giở xa xôi hơn nữa thì trong cuốn Văn Đàn Bảo Giám là tuyển tập thi ca do Trần Trung Duyên sưu tập, cụ Dương Bá Trạc đề tựa, sau đấy cụ Tản Đà cũng đề tựa vào năm 1934 có ba tập xuất bản từ năm 1926. Cho đến năm 1938 thì trọn bộ. Bài Hà Thành Tức Cảnh được chép trong các sách đó cũng ghi tác giả là Dương Khuê. Văn Đàn Bảo Giám xuất bản sau khi Dương Khuê tạ thế khoảng 2-30 năm. Như vậy khi Văn Đàn Bảo Giám xuất hiện thì các con cháu của các cụ Dưong Lâm và Dương Khuê vẫn còn đang sống và do đó rất đáng tin. Tôi cho rằng bài thơ Hà Thành Tức Cảnh mà sau đó người ta cứ tưởng là một bài ca dao thì đích thực là của tác giả Dương Khuê. Mặc Lâm Thưa TS nhiều người rất bối rối vì sự xuất hiện của câu thơ khác hẳn những gì mà chúng ta đang bàn ở đây vì địa danh thì gống nhưng địa điểm danh thắng thì hoàn toàn khác đó là câu Gió đưa cành trúc la đàTiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương. TS có giải thích thế nào về cái khác nhau giữa Trấn Võ và Thiên Mụ? TS Nguyễn Xuân Diện Khi người ta đọc câu Gió đưa cành trúc la đàTiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ XươngMịt mùng khói tỏa ngàn sươngNhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ… Theo như cụ Hoàng Đạo Thúy thì nói bài này ở Hà Nội, thế nhưng trong một bút ký của học giả Phạm Quỳnh trong những ngày ở Huế có tả một đoạn nói về Thiên Mụ và học giả Phạm Quỳnh có bình là “cả hồn thơ xứ Huế như chan chứa trong hai câu ca ấy. Chùa Thiên Mụ là cái danh lam có tháp bảy tầng ở ngay bờ sông Hương. Làng Thọ Xương thì ở bên kia song, ban đêm nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng giữa khoảng trời nước long lanh mà cảm, đọc thành câu ca ấy mới rõ cái tính tình người xứ Huế”. Như vậy cụ học giả Phạm Quỳnh đã dùng ý tứ của cụ Dương Khuê để viết lại cho hợp với địa danh của Huế có chùa Thiên Mụ và làng chài Thọ Xương, hay còn gọi là Thọ Khương, hay Thọ Cương, hoặc là Long Thọ Cương. Theo như nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thanh của Viện Hán Nôm thì cho rằng Phạm Quỳnh viết dựa trên câu thơ của Dương Khuê hoặc từ kinh nghiện văn hóa dân gian bản địa. Đấy là quá trình truyền bản của mấy câu thơ liên quan đến Gió đưa cành trúc la đàTiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương… Không phải 'canh gà' Hồ Tây Hà Nội. Photo courtesy of blog Nguyễn Xuân Diện. Mặc Lâm Sau khi cô giáo dạy văn cho điểm tám đối với bài viết về canh gà của một học sinh mô tả đây là loại súp gà rất ngon thì dư luận lại đưa ra nhiều câu chuyện minh chứng cho bài viết của em học sinh này là đúng. Đáng chú ý là một bài viết cho rằng còn trong thư viện của Viện Hán Nôm với ký hiệu hẳn hoi cũng của cụ Dương Khuê tên là “Vân Đình Tiến sĩ Dưong Khuê Thượng thư Tiên sinh”, nhưng cụ kể câu chuyện của mình về hai chữ “canh gà” là do cụ viết ca ngợi món canh gà rất ngon tại ngõ Thọ Xương Hà Nội. Việc này thực hư thế nào thưa TS? TS Nguyễn Xuân Diện Mấy người trên mạng nói là đã đến Viện Hán Nôm và tìm cuốn này với ký hiệu là A2185, trong đó có chép bài thơ gọi là Tối Ức Thọ Xương Thang tức là nhớ nhất món canh Thọ Xương của cụ Dương Khuê. Đấy chỉ là những điều họ bày đặt ra cho vui vẻ trong thời gian căng thẳng như thế này thôi chứ không phải là một câu chuyện thật. Mặc Lâm Cũng có một câu chuyện trên mạng kể rằng bốn câu thơ này nói về món canh gà trong thực đơn của nhà văn Vũ Bằng vì nhà văn này từng nổi tiếng với những món ngon Hà Nội… Câu chuyện này rõ ràng là khó tin vì nhà văn Vũ Bằng chỉ là một hậu bối so với sự xuất hiện của bốn câu thơ này. TS thấy sao? TS Nguyễn Xuân Diện Có người cho rằng canh gà là một món ăn nhưng không ai đưa ra một tác phẩm nào chứng minh rằng đúng là món canh gà trong câu thơ này. Có một tác giả là Lê Quang, kể một câu chuyện rất lâm ly khi ông ấy đến gặp một cụ già năm nay đã 95 tuổi cho biết là ngày xưa đã giao du với Nguyễn Bính, Đinh Hùng và các nhà thơ khác. Tác giả Lê Quang kể một câu chuyện là khi ông ấy đến hỏi cụ già ấy về canh gà Thọ Xương thì cụ ấy đã rón rén mở một tập tài liệu ra trong đó có những trang thủ bút của nhà văn Vũ Bằng đã hoen mực và ông ấy viết là Canh gà Thọ Xương là một cái tên trong các món ăn Hà Nội lúc bấy giờ. Tất nhiên người cung cấp câu chuyện không có một bức ảnh cho thấy cái gọi là thủ bút ấy của nhà văn Vũ Bằng. Khi công dân mạng người ta dồn quá thì anh này thú nhận là anh ta bịa ra cho vui thôi. Mặc Lâm Để kết thúc câu chuyện về canh gà hôm nay theo TS thì chi tiết văn chương nào chứng minh rằng canh gà Thọ Xương là nói về thời gian mà hoàn toàn không dính líu gì tới món ăn như những người thích đùa nêu ra …TS Nguyễn Xuân Diện Trong tình hình hiện nay chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn là bốn câu thơ này vốn xuất phát từ bốn câu Phất phơ cành trúc trăng tàTiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ XươngMịt mùng khói tỏa ngàn sươngNhịp chày An Thái mặt gương Tây Hồ vốn là của Vân Trì Dương Khuê người ở Vân Đình, Ứng Hòa, Hà Nội. Trong câu Tiếng chuông Trấn Võ canh gà Thọ Xương thì nó đã dựng lên một tiểu đối trong phép làm thơ lục bát rất đẹp. “Tiếng chuông Trấn Võ” đối với “Canh gà Thọ Xương”. Tiếng chuông gồm có chuông sáng và chuông chiều nói về quy định thời gian trong nhà chùa. Canh gà thì nói về thời khắc chia thời gian trong đêm. Như vậy tiếng chuông Trấn Võ là một cách để người ta chỉ thời gian của sinh hoạt về tôn giáo. Canh gà Thọ Xương là tiếng gà gáy trong các vùng quê ven Hồ Tây thì đấy là tiếng báo giờ trong dân gian, nó tạo nên một tiểu đối và cả bài thơ tả một cảnh yên bình, đẹp đẽ và thơ mộng của Hồ Tây chứ không thể lẫn vào món canh gà như là bát canh, bát súp gà được. Mặc Lâm Xin cám ơn TS Nguyễn Xuân Diện. Thưa quý thính giả, vậy là chúng ta có thể yên tâm khi đã có tài liệu khả tín về bốn câu thơ dễ thương này. Hy vọng rằng từ nay, mỗi khi nghe tiếng võng kẽo kẹt trưa hè của ai đó đưa con bằng bốn câu lục bát chân phương này chúng ta sẽ không nghe mùi hương ngào ngạt từ một chị gà mái nào đó mà thay bằng mùi hương hoa bưởi, hoa lài của một Hà Nội lung linh tiếng chuông chùa Trấn Võ. Dù hiểu bài thơ bằng cách nào cũng cho thấy tình yêu thương của người dân ba miền đã thấm đẫm cái hồn cốt Trấn Võ, Thọ Xương vào sâu trong đời sống của họ. Yên Thái tuy ngày nay không còn tiếng chày vào buổi sáng mịt mùng nhưng Tây Hồ vẫn đời đời lung linh sắc xám của những buổi sáng đẫm sương Hà Nội. Theo dòng thời sự Chuyện về những bài văn lạ Nhà văn Mạc Ngôn Hoa Địa Ngục Còn đâu Chùa Trăm Gian! Nhà Thơ Trúc Ty
Cảm nhận về bài ca dao sau Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Bài làm Hình ảnh quê hương đất nước được nói đến nhiều trong ca dao, dân ca. Có “đường vô xứ Nghệ quanh quanh – Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”. Nơi ải Bắc xa xôi là “Đồng Đăng có phô" Kì Lừa – Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”, Huế đẹp mộng mơ có “Núi Truồi ai đắp mà cao – Sống Hương ai bới, ai đào mà sâu?…”. Và có cảnh sáng sớm mùa thu trên Hồ Tây, nơi kinh thành Thăng Long “ngàn năm văn vật” Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Bài ca dao mang màu sắc một bài thơ cổ điển, đẹp như một bức tranh thuỷ mặc. Cảnh vật Hồ Tây được miêu tả thật nên thơ hình ảnh, màu sắc, đường nét, âm thanh hài hòa, sống động. Những khóm trúc ven hồ, cành lá um tùm rậm rạp, đeo nặng sương mai “la đà” sát mặt nước, sát mặt đất, rung rinh, đu đưa trước làn gió nhẹ. Từ láy tượng hình “la đà” – một nét vẽ thoáng và gợi cảm, đầy ấn tượng Gió đưa cành trúc la đà, Cây tre, cây trúc rất gần gũi, thân thuộc với con người Việt Nam. Tre, trúc là cảnh sắc làng quê. Tre, trúc là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn người thiếu nữ quê ta Trúc xinh trúc mọc bờ ao, Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh. Sau khi tả cành trúc, tác giả nói về âm thanh gần, xa Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Câu ca dao ngắt thành hai nhịp chẵn 4-4, hai vế tiểu đối cân xứng, hòa hợp như âm thanh tiếng chuông đền Trấn Vũ và tiếng gà gáy sang canh từ làng Thọ Xương vọng tới. Đền Trấn Vũ còn gọi là đền Quan Thánh nằm cạnh Hồ Tây là nơi thờ đức Huyền Thiên Trấn Vũ. Tiếng chuông Trấn Vũ ngân lên trong sương sớm như ru hồn người vào huyền thoại, lắng hồn núi sống ngàn năm, để ta yêu hơn non nước quê nhà “Quán Trấn Vũ nắng mưa nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để tích giam Rùa” Tụng Tây Hồ phú – Nguyễn Huy Lượng. Tiếng gà gáy sang canh… lại làm ta tỉnhmộng, song lại nhịp sống đời thường dân đã “Lao xao gà gáy rạng ngày, Vai vác cái cày, tay dắt con trâu…”. Cùng với tiếng gà gáy báo sáng là nhịp chày giã đó làm giấy ở phường Yên Thái vang lên rộn rã, nhịp nhàng. Lụa làng Trúc, giấy Yên Thái là sản phẩm nức tiếng kinh kì Thăng Long từ thời nhà Lí xa xưa, là niềm tự hào của những người thợ thủ công tài hoa Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng May áo chàng cùng sóng áo em. Ca dao Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ Thoi oanh ghẹo hai phường dệt gấm… Tụng Tây Hồ phú Tiếng gà gáy, tiếng chày giã đó đã diễn tả nhịp sống lao động cần mẫn của nhân dân ta nơi ba mươi sáu phố phường. Qua âm thanh ấy, ta cảm nhận được cuộc sống sôi nổi của nhân dân ta một thời thanh bình, no ấm và yên vui. Nhà thơ dân gian như đang đứng trầm ngâm, lặng ngắm cảnh Hồ Tây lúc sáng sớm. Mùa thu, sáng sớm cảnh vật phủ mờ sương khói. Phốphường, làng mạc, cảnh vật, cỏ cây “mịt mờ” trong “ngàn sương” và “khói tỏa”. Sương phủ trắng bao la; mênh mông và mịt mù. Huyền ảo và thơ mộng quá. Câu thơ cổ kính, chứa chan thi vị Mịt mù khói tỏa ngàn sương. Từ láy tượng hình “mịt mờ” và hình ảnh ẩn dụ “ngàn sương” đã làm cho câu ca dao mang màu sắc cổ điển, dẫn dắt cảm xúc người đọc liên tưởng đến những vần cổ thi. Cuối bài ca dao là hình ảnh Hồ Tây trong sương sớm được ví với “mặt gương”. Biện pháp tu từ ẩn dụ được vận dụng thần tình, vẽ lên một cảnh sắc tuyệt đẹp “Mặt gương Tây Hồ”. Hồ Tây yên tĩnh mênh mông và bao la, nước trong xanh, phẳng lặng như một tấm gương khổng lồ. Hồ Tây, qua hàng nghìn năm là một thắng cảnh của thành Thăng Long cốđô của các triều đại Lí, Trần, Lê, chói lọi trong sử sách, biểu tượng thiêng liêng của hồn nước nghìn năm. Ngày nay, nó là Hà Nội, thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bài ca dao làm đẹp tâm hồn mỗi con người Việt Nam, nó làm ta thêm yêu Hà Nội. Nhớ Thăng Long nghìn xưa, lòng ta bồi hồi tự hào về nền văn hiến Đại Việt. Từ khóa tìm kiếm nhiềuhttps//hocsinhgioi com/cam-nhan-ve-bai-ca-dao-sau-gio-dua-canh-truc-la-da-tieng-chuong-tran-vu-canh-ga-tho-xuong-mit-mu-khoi-toa-ngan-suong-nhip-chay-yen-thai-mat-guong-tay-ho
Tôn Thất Thọ Từ trước đến nay đã có rất nhiều bài viết thảo luận về địa danh Thọ Xương, cũng như nguồn gốc của hai câu ca dao liên quan đến địa danh này, bởi lẽ nó đã xuất hiện trong cả hai câu, một ở Huế và một ở Hà Nội. Câu ca dao ở Huế có nội dung Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương. Thuyền về xuôi mái sông Hương Có nghe tâm sự đôi đường đắng cay! Còn câu ở Hà Nội là Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói toả ngàn sương, Nhịp chày An Thái, mặt gương Tây Hồ. Tựu trung hai khuynh hướng tranh luận, đó là 1- Câu ca có nguồn gốc từ Hà Nội, bởi địa danh Thọ Xương từ thời nhà Nguyễn đã là một huyện, và hiện vẫn tồn tại; hơn nữa lại phù hợp với di tích đền Trấn Vũ hiện nay. Còn Huế thì không có địa danh Thọ Xương. 2– Khuynh hướng hai dựa vào một số tài liệu lịch sử như Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang …đã chứng minh rằng từ xa xưa, Thọ Xương ở Huế là tên vùng đất đối diện chùa Thiên Mụ, nguyên tên của nó là Thọ Khương hay Thọ Khang; đến đời vua Gia Long 1802-1820, do kỵ húy đế hiệu thân sinh của nhà vua Hiếu Khương Hoàng Đế nên ông đã đổi thành Thọ Xương. Năm Minh Mạng thứ 5 1824, nhà vua đã đổi thành Long Thọ Cương và hiện nay, người địa phương chỉ gọi là Long Thọ, tại đây hiện có nhà máy chế biến xi măng Long Thọ đã có từ lâu.\ Trong cuốn Sổ tay địa danh Việt Nam, tác gỉa Đinh Xuân Vịnh ghi như sau “Thọ Xương Làng, trước gọi là Thọ Khang, Gia Long đổi là Thọ Xương. Năm 1824 đổi là Long Thọ, thuộc huyện Phú Vang, Phủ Thừa Thiên trên sông Hương, nay thuộc thành phố Huế” Sổ tay địa danh …, sđd, trang 515. Trong các kho lúa ở xứThuận Hóa Huế dưới thời các chúa Nguyễn, sách Việt Sử xứ Đàng Trong ghi rõ “Ở Thuận Hóa ban đầu có 7 kho là Kho Thọ Khương huyện Phú Vang, kho Nguyệt Biều huyện Hương Trà, kho Thạch Hãn huyện Hải Lăng, kho Lai Cách huyện Minh Linh, kho An Trạch huyện Lệ Thủy, kho Trung Trinh và kho Trường Dục huyện Khương Lộc.Việt sử xứ Đàng Trong, sđd, tr 213. Ngoài ra, những nhà nghiên cứu theo khuynh hướng này đã dựa vào gia phả họ Dương để xác định rằng câu ca được lưu truyền ở Hà Nội chính là một trong những bài thơ của tác giả Dương Khuê 1839-1902 mà hai câu đầu nguyên văn là “Phất phơ ngọn trúc trăng tà Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương”. Bài thơ có tựa là Hà Nội tức cảnh và được tác giả sáng tác sau khi từ giã quan trường ở Huế để ra lại quê nhà. Tiến sĩ Dương Thiệu Tống 1925-2008 đã chép bài thơ này in trong cuốn Tâm trạng Dương Khuê và Dương Lâm của mình Nxb Văn Học,1995, đồng thời đã có nhân xét là “Có người đã sửa đổi câu đầu bài thơ này là “Gió đưa cành trúc la đà”, nhưng có lẽ là sai, vì làm mất đi ý nghĩa ngầm của toàn câu, mà chỉ còn ý nghĩa tả cảnh nổi mà thôi.” Khách quan mà nói, ta thấy về ngôn từ, cũng như về ý nghĩa thì hai bài hoàn toàn khác nhau. Câu ca dao ở Huế không có tác giả, nó diễn tả phong cảnh hữu tình, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự vào một buổi sớm tinh mơ khi gà vừa gáy sáng chuyển canh; trong khi bài thơ Hà Nội tức cảnh do Dương Khuê sáng tác để gửi gắm nỗi lòng của mình đối với hoàn cảnh đất nước. Trong bài này, có lẽ tác giả đã biến đổi địa danh Thiên Mụ ở Huế của câu ca dao thành ra địa danh Trấn Vũ cho hợp với phong cảnh Hà Nội. Bài thơ này được Dương Khuê được sáng tác vào khoảng thập niên 1870, sau nhiều năm sống tại Huế. Do đó có thể nghĩ rằng, câu ca dao ở Huế đã ảnh hưởng đến tứ thơ của thế, khi trở ra miền Bắc, gặp lúc thời thế nhiễu nhương, ông sáng tác bài này để biểu lộ nỗi lòng của mình. Hai câu đầu của bài thơ là mượn câu ca dao ở Huế, nhưng thay đổi địa danh cho phù hợp với phong cảnh của Hà Nội chùa Thiên Mụ đổi thành chùa Trấn Vũ, vả lại, do sự trùng hợp Hà Nội cũng có địa danh Thọ Xương nên đã không cần phải đổi địa danh này ? Gần đây, trong tập Di sản Hán Nôm Huế Huế-2003 có công bố một văn bản bằng chữ Hán thuộc loại thư tịch cổ ở làng Xuân Hòa nay là xã Hương Long, thành phố Huế. Đây là một văn bản tranh tụng về đất đai, lạc khoản đề năm Gia Long thứ 10 1811 và có đủ đặc điểm về tự dạng chữ viết thời bấy giờ. Có thể coi đây là tư liệu sớm nhất liên quan đến địa danh Thọ Xương vào đầu thế kỷ XIX. Xin được trích lại phần dịch nghĩa do nhóm tác giả Lê Văn Thuyên, Lê Nguyễn Lưu và Huỳnh Đình Kết thực hiện “Chúng tôi là xã trưởng Hạ- Hoàng Ngọc Hạ, hương mục lão Dụng- Hoàng Văn Dụng, lão Tiệp- Hồ Hữu Tiệp ở xã Nguyệt Biều phụ giới tổng Kim Long, huyện Hương Trà, xin chứng nhận như sau Nguyên năm trước, xã Dương Xuân kiện giành với xã chúng tôi về ranh giới thuộc khu vực núi Thọ Xương cũ. Phía trước nhà của cha Cứ ở vườn xứ Đỉnh Động núi ấy thuộc xã chúng tôi có một ngôi mộ tro cổ, hiện tấm bia đá khắc mấy chữ “Chôn tại núi Thọ Xương”, từng được người do Bộ phái đến khám xét thấy là thật, ghi chép làm bằng, so với giấy tờ đơn trương, sổ sách của xã chúng tôi cùng các lời khai báo đều phù hợp, đã nêu thành án chờ xử lý. Nay vâng lệnh truyền các xã, thôn, phường trong huyện phải cùng nhau thừa nhận mốc giới, làm mới sổ ruộng đất, xã Dương Xuân bèn hẹn với xã chúng tôi làm việc vào ngày mồng 8 tháng Trọng xuân 2-3-1811. Đúng ngày ấy, tập trung tại chỗ, xem thấy tấm bia vẫn còn đó. Lần kế tiếp, ngày 11 cùng tháng, hai xã lại đến, đối mặt nhau nhận ranh giới. Xã chúng tôi chịu nhận mốc dưới từ Đò Lạc, trên đến ruộng tư xứ Cửa Sĩ, còn người xã ấy cứ theo sổ cũ, không chịu mà bỏ đi. Nay tấm bia nói trên đã bị mất, nhưng vết tro ở chân bia vẫn còn dấu mới. Vì vậy xã chúng tôi bèn mời lão Kiểm, lão Tứ ở xã Cư Chánh giáp ranh; lão Thái ở xã Xuân Hòa gần cạnh, cả hai xã cùng tập trung tại chỗ bia đá ngôi mộ cổ ở dải núi Thọ Xương thuộc xứ Động xã chúng tôi để xem xét thực tế. Hỏi mệ Cứ “Ai lấy trộm bia đá?”. Mệ Cứ khai miệng rằng “Người xã Dương Xuân lấy trộm bia đá ấy đi rồi!”. Xã chúng tôi cùng hai xã đều có nghe cả, cho nên lập giấy này để làm bằng. Trên đây là giấy chứng nhận. Ngày mồng 2 tháng Hai nhuận năm Gia Long thứ 10. Người lập tờ bằng Xã trưởng Hạ – Hoàng Ngọc Hạ điểm chỉ. Những người chứng nhận Người xã Cư Chánh Lão Kiểm – Nguyễn Ngọc Kiểm điểm chỉ Lão Tứ – Nguyễn Văn Tứ điểm chỉ Người xã Dương Xuân Lão Thái – Phan Văn Thái điểm chỉ Người xã láng giềng Thầy Cường ký Lão Dụng – Hoàng Văn Dụng điểm chỉ Lão Tiệp – Hồ Hữu Tiệp điểm chỉ Người viết giấy Thầy đồ Đặc – Hồ Hữu Đặc ký” Trích Di sản Hán Nôm…, sđd, tr 253 và 259. Văn bản này đã chứng tỏ rằng, dưới thời vua Gia Long 1802 – 1820 ở Huế đã từng tồn tại một địa danh có tên Thọ Xương, đó là một vùng đất gò và núi, điều này đúng với thực tế, vì địa điểm này đối diện với chùa Thiên Mụ bên kia sông Hương. Và như thế một lần nữa có thể xác định câu ca dao “ Gió đưa cành trúc la đà…” có nguồn gốc từ Huế chứ không phải là ở Hà Nội ! ——————————- * Tài liệu tham khảo -Di sản Hán Nôm Huế, Trung tâm BTDT Cố đô Huế, Đại Học KHXHNV HN, 2003. – Phủ Biên tạp lục, Lê Qúi Đôn, Nxb KHXH, 1977 -Việt sử xứ Đàng Trong, Phan Khoang, Nxb Khai Trí Sài Gòn 1967. – Đại Nam nhất thống chí T1,QSQTN, Nxb Thuận Hóa,1992. – Sổ tay địa danh Việt Nam, Đinh Xuân Vịnh, Nxb Lao Động,1996. -Tâm trạng Dương Khuê và Dương Lâm, Dương Thiệu Tống, Nxb Văn Học, 1995 .
tiếng chuông trấn vũ canh gà thọ xương